Trong các ngày qua, tin về việc tìm thấy những tư liệu về bà Bùi Thị Hý "tổ làng gốm Chu Đậu" được đăng tải trên nhiều báo . Đọc các tin đó tôi nửa mừng nửa... hoang mang.
Mừng là vì: nếu là một tin đúng với bằng cớ xác đáng thì quả đây là một phát hiện vô cùng quan trọng của ngành khảo cổ học.
Nó mang lại những chi tiết bất ngờ, về ngành sản xuất gốm ở thế kỷ 15, về ngành đi biển, về vai trò phụ nữ trong xã hội Việt Nam, về việc giao thương với nước ngoài v.v.
Thế nhưng càng đọc tôi càng thấy việc này khá rối rắm.
Bởi chính là vì nó có quá nhiều "chi tiết" , quá nhiều "bằng chứng" để có thể... tin được!
Ở nước ta, không có truyền thống giữ gìn tài liệu tốt, lại thêm khí hậu ẩm thấp, khắc nghiệt khiến cho các tư liệu cổ khó tồn tại.
Kho tàng sách Hán Nôm nhiều nhất là thời Nguyễn, lên đến thời Lê Trung Hưng cũng đã là hiếm hoi.
Phần lớn các gia phả cũng chỉ "cổ" đến thời Khải Định, Bảo Đại... Và được viết đi viết lại nhiều lần qua ... trí nhớ của các cụ!
Đến như một dòng họ lớn là Chúa Nguyễn thì “gia phả” cũng không đủ chi tiết mặc dù là quý tộc, họ này có đủ quyền lực, khả năng, điều kiện để giữ gìn tư liệu, và nhất là có sử quan chuyên nghề viết "thực lục".
Thế mà nếu đọc "Đại Nam thực lục tiền biên" thì phần lớn các bà Phi, Hoàng tử, Công chúa đều: hoặc là có ngày sinh thì không có ngày mất, biết ngày mất thì lại không biết ngày sinh.
Công chúa thì phò mã nhiều người có tên mà… khuyết họ. Mà có họ thì khuyết tên!
"Hành trạng" mỗi người chỉ dăm ba dòng là hết!
Ngày nay, muốn nghiên cứu về giao thương thì phần lớn phải dựa trên các ghi chép của thương nhân người Nhật "Chu Ấn Thuyền" hay của công ty "Đông Ấn".
Nếu tài liệu về bà Hý mà chân thực thì quả là "báu vật"!
Một "sự tích" cách đây 500 trăm năm mà rõ nét như phát hiện về bà Bùi Thị Hý quả thật là vô cùng quý giá!
Trường hợp bà Bùi Thị Hý rất chi tiết, rất “rõ ràng” biết năm sinh, năm mất.
Biết tên chồng là hai ông Đặng Sĩ và Đặng Phúc.
Biết ông Đặng Sĩ mất trên biển.
Biết cả hai ông bà là "đại gia".
Biết bà là cháu ngoại của công thần Bùi Quốc Hưng.
Không những thế mà còn tìm ra mộ của bà, di vật của bà là cái la bàn đi biển và con rồng gốm.
Cả hai "di vật" đều có ghi tên bà.
Thông thường, trong các gia phả thì vị thế người phụ nữ ít đưọc xem trọng.
Thường thì chỉ có tên đàn ông, còn vợ thì phần lớn chỉ nêu tên, lắm khi khuyết cả họ.
Như thế đây là một gia phả rất là "đặc biệt". Nếu đúng , đó quả là một báu vật quốc gia!
Nó nói lên vị thế ngưòi phụ nữ Việt Nam, cải chính nhiều thành kiến lâu đời!
Thế nhưng, tôi vẫn phân vân về các "chứng cứ" đó.
Trước nhất bởi sự "đột ngột" của "khám phá" này.
Bởi: chỉ cách đây không lâu, trong quyển "Gốm Chu Đậu (NXB KinhBooks, Hà Nội, 1999)” do nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành chủ biên còn viết:
Bình gốm Chu Đậu ở bảo tàng Topkapi Sarayi (Thổ Nhĩ Kỳ)
"Nghề sản xuất gốm sứ của Chu Đậu thất truyền cách đây tới 3 thế kỷ. Truyền thuyết về nghề này cũng ít khi được nhắc tới, chỉ còn một di tích gọi là Đống Lò được nhiều người biết, nhưng cũng không ai giải thích được là lò sản xuất gì. Tìm trong thư tịch tại địa phương, có vài dòng trong gia phả họ Vương ở Đặng Xá ghi vào đầu thế kỷ này, có nói tới một chi của dòng họ chuyển về Bát Tràng (Hà Nội) để làm bát. Thay vào nghề làm đồ gốm là nghề dệt chiếu- Chiếu Đậu từng nổi tiếng một thời".
Nhận định này là vào năm 1999, 13 năm sau khi cuộc khai quật vào năm 1986 được bắt đầu.
Như thế chuyện làm gốm đã biến khỏi "ký ức" người Chu Đậu. Thế mà lạ thay, bỗng dưng chỉ sau vài năm nó trở lại thực chi tiết và sinh động.
Về các "di vật" cũng làm tôi phân vân.
Thứ nhất là về con rồng (có báo ghi là con nghê) có ghi tên bà.
Nếu quả là di vật thật thì nó có giá trị vô cùng lớn. Một báu vật!
Chắc chắn không thua gì chiếc bình gốm ở viện bảo tàng Topkapi Sarayi!
Điều phân vân của tôi là phong cách viết niên hiệu của "báu vật" này.
Khác với chiếc bình ở Topkaki, nơi tên bà được viết dưới lớp men, ở đây nó được ghi dưới đế hàng chữ:
“光順一年 光映庄裴氏戲造”
"Quang Thuận nhất niên Quang Ánh Trang, Bùi Thị Hý tạo".
Quang Thuận là niên hiệu đầu tiên thời vua Lê Thánh Tông, Quang Thuận nhất niên là năm 1460. Năm bà Hý 40 tuổi.
Khổ nỗi! Vấn đề là người xưa không dùng "nhất niên" cho năm đầu tiên của niên hiệu!
Chỉ từ năm thứ hai trở đi mới đếm là nhị niên, tam niên v.v.
Năm đầu người ta dùng chữ "nguyên niên" (元年) hay "sơ"(初).
Thí dụ "Chính Hoà Nguyên Niên": năm Chính Hòa thứ nhất. "Quang Trung Sơ": Quang Trung năm thứ nhất.
Trên các đồ gốm hoặc người ta chỉ viết niên hiệu để chỉ cả thời gian đó như "Vĩnh Thịnh Niên" hay "Vĩnh Thịnh niên chế".
Hoặc để viết năm rõ hơn thì như khá nhiều gốm thời nhà Lê/Mạc, người ta viết chẳng hạn như:
"Hưng Trị nhị niên": Hưng Trị năm thứ hai, "Vĩnh Tộ vạn vạn niên chi tứ": Vĩnh Tộ năm thứ tư.
Riêng năm đầu niên hiệu như ở một chân đèn thời nhà Mạc thì ghi:
“延成萬[萬]年之初三月三十日”
"Diên Thành vạn vạn niên chi SƠ tam nguyệt tam thập nhật" (tức 30/3 năm Diên Thành năm thứ nhất (1578)). [ Cẩm Nang Đồ Gốm VN có Minh Văn, Nguyễn Đình Chiến, VBTLSVN, Hà Nội 1999]
Cách viết "Quang Thuận nhất niên" để lộ khả năng là người đời nay viết do không nắm phong cách cổ!
Giá như người ta viết "Quang Thuận Sơ, Quang Ánh.." thì mọi sự đã .. khả tín hơn! Thật đáng tiếc!
Thứ hai là về chiếc "La bàn" đi biển có hàng chữ:
"Châm bàn chu hải khứ, Bùi Thị Hý"
Di vật này khiến người ta kết luận bà Hý là "người đi biển".
Điều này làm tôi quả thực phân vân.
Bà Hý quá nhiều tài năng!
Về văn học thì bà giả trai đi thi đến tam trường. Về nghệ thuật thì bà vẽ giỏi viết đẹp. Về buôn bán thì bà là "đại gia". Mộ bà thì lại có "bảo kiếm".
Thế vẫn chưa đủ! Bà còn đi biển, bà đích thân có chiếc la bàn!
Có nhất thiết phải thêm "bằng chứng" nhiều đến thế không? Nhiều! Quá nhiều!
Một "đại gia" mà lại là phụ nữ thì không nhất thiết phải tự mình đi biển!
Bà chỉ cần hoặc chỉ huy làm gốm, hoặc chỉ huy thu mua gốm cũng đủ là tài, cũng đủ hết giờ!
Chuyện đi biển thì khắc có "quân" bà nó lo! Nếu cần thì bảo ông Đặng Phúc đi!
Hay sẽ có những con tàu đi biển chuyên nghiệp họ chở hàng giùm bà.
Cứ cho rằng bà đi biển (như đi thăm dò thị trường chẳng hạn) thì vị tất bà đã phải tự lái tàu!
Chuyện đó có thuyền trưởng họ lo!
Chuyện đi biển là chuyện "chuyên nghiệp", phải biết địa lý, xem sao, biết luồng nước, con gió, cảng nông sâu, biết điều khiển thủy thủ, ... đủ cả.
Chẳng lẽ bà lại kiêm nhiệm nhiều chuyện như thế?
Mà giá dụ như cái la bàn này thực là của bà, bà mua cho thuyền trưởng... thì vị tất bà đã khắc tên mình trên đó, mà là tên "tục" chứ không phải như "Đặng Phu Nhân" chẳng hạn!
Ở nước ta chuyện khắc tên "tục" trên vật dụng thì theo chỗ tôi hiểu là chưa từng có hoặc nếu có thì quả thực là hi hữu.
Ta chẳng có nghiên mực, quyển sách cổ nào có tên Nguyễn Du, Lê Quý Đôn v.v. trên đó cả.
Sách cổ có "tung tích" như của cụ Cao Xuân Dục thì ghi là "Long Cương Thư Viện" chứ nào viết thẳng là "Cao Xuân Dục"!
Thật đáng tiếc! Nếu như la bàn này chỉ khắc là "Đặng Gia" , hay "Quang Ánh Trang" thì mọi sự đã "khả tín" hơn.
Và giá như người ta tìm được nó một cách vất vả hơn là như theo báo đăng : "ngày 14/4/2009, ông Lợi còn cung cấp cho ông Tăng Bá Hoành một phiến đá nhỏ có chữ Hán, nằm lẫn trong đống đá tảng ở đầu nhà".
Mọi sự nó chi tiết quá nhưng lại... đơn giản đến khó tin... Di vật bỗng dưng tìm lại được sau... 500 năm mà... ở ngay chính đầu nhà.
Về di vật thứ ba là viên gạch che mộ bà. Thì chữ viết khá cẩu thả, to nhỏ khác nhau, có thể gọi là khá "nguệch ngoạc".
Nó thiếu sự trang trọng vốn có ở các bia mộ. Tuy thế cứ cho rằng đúng đi nữa thì vẫn có hàng chữ... "đáng ngờ" là "Vọng Nguyệt Bảo Kiếm"... Quả tình tôi chưa hiểu đây nghĩa là bà Hý có thanh "Bảo Kiếm" hay chỉ là để "yểm"?
Nếu bà có cả "Bảo Kiếm" thì lại quả thật là lạ thưòng!
Đúc kiếm vốn chẳng phải là mặt mạnh của truyền thống trọng văn khinh võ Việt Nam.
Có đào được mộ của các quan võ cũng chẳng thấy "bảo kiếm" nào chôn kèm.
Còn nếu ta ra phố đồ cổ nghe tán là thanh kiếm này nọ là của ông cha là quan võ để lại từ mấy trăm năm thì nên cầm chắc là ta sẽ mua phải đồ giả mới làm... năm ngoái!
Tóm lại , tôi thấy trong việc này , có quá nhiều bằng chứng, quá nhiều chi tiết hơn "bình thường" để có thể yên tâm mà tin được.
Và tôi cũng xin đề nghị viện Bảo tàng trước khi mang những di vật này vào nên giám định kỹ về niên đại.
Đoan Hùng